Tên khác: Lồ lào bỉa
Mô tả: Cây nhỡ cao 3 - 8m, có các nhánh nhẵn. Lá hình trái xoan ngược, có khi thuôn, dài 5 - 10cm, thon - tù hay hình tim ở gốc, tròn hay hơi nhọn ở đầu, có mũi cứng, rất nhẵn bóng, khi khô màu hung nâu, dài 6 - 15cm, rộng 3 - 6cm; cuống ngắn.Hoa thành bông đơn độc, to, nhẵn, ở ngọn hay ở nách lá. Quả mọng, gần hình cầu, đỏ rồi đen, đường kính 6 - 10mm, tận cùng bởi 4 đầu nhụy.Loài của vùng Đông Himalaya, Ấn Độ, Mianma, Nam Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaixia, Inđônêxia, Irian và Ôxtrâylia. Ở Việt Nam có gặp tại nhiều nơi: Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Khánh Hòa, Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng, Đồng Nai, ra tới Côn Đảo.Cây mọc ở các đồi núi, bờ bụi cho tới rừng rậm, ở vùng trung du và đồng bằng. Ra hoa quả vào mùa hè-thu, thường gặp quả vào tháng 7 - 9.Quả ăn được. Gỗ màu trắng hồng, rắn, có thể dùng làm các nông cụ như cuốc, cào, thuổng. Dân gian dùng rễ chòi mòi tía trị ban nóng, lưỡi đóng rêu, đàn bà kinh nguyệt không đều, ngực bụng đau, có hòn cục và đàn ông cước khí thấp tê.Ở Ấn Độ cũng như ở Inđônêxia, lá được dùng như là thuốc làm toát mồ hôi và điều trị đau giang mai và suy mòn; ở Ấn Độ lá còn được dùng trị nọc độc ở động vật. Ở Inđônêxia, người ta cho biết trong vỏ cây có một lượng nhỏ alcaloid độc.Còn ở Trung Quốc, rễ, lá và quả được sử dụng làm thuốc; trong lá có chứa Friedelin, trong thân có Dammara - 20, 24 - dien 3b - ol, còn trong cây có nhiều loại vitamin như thiamin, riboflavin và niacin (acid nicotinic). Người ta sử dụng rễ, lá, quả trị ho họng khát, đòn ngã tổn thương và lở độc.Ở thành phố Hồ Chí Minh, các nhà vườn còn khai thác cây trong thiên nhiên có gốc rễ sần sùi về tạo dáng cây Bonsai.
Sử dụng:
Công dụng: Chữa Phong tê thấp
Nhân giống:
Phân bố: Ba Vì
Bảo tồn:
Tài liệu tham khảo:
Bài thuốc: